Từ 18/3 đến 18/5/2017, Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam (NSNAVN) tổ chức Triển lãm Tổng kết “Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt Nam 30 năm đồng hành cùng đất nước đổi mới”. Năm 2017 đồng thời cũng là kỷ niệm 20 năm hoạt động đối ngoại chính thức của Hội. Bên cạnh thành tích, còn không ít những trăn trở của người làm nghề. Báo Sức khỏe & Đời sống xin giới thiệu một tiếng nói tâm huyết của nghệ sĩ nhiếp ảnh Vũ Huyến, người từng trải qua các vị trí Phó Chủ tịch, Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội NSNAVN.
Ở Việt Nam, vài chục năm gần đây có thể nhắc đến các bức ảnh về Hà Nội xưa, cuộc sống người dân Việt trước Cách mạng Tháng Tám 1945 (lĩnh vực ảnh tài liệu) các bức ảnh đoạt Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước qua nhiều đợt, hình ảnh về Việt Nam trong chiến tranh do các nhà nhiếp ảnh nhiều phía chụp và lưu giữ được. Giá trị trước hết bởi nội dung thực có giá trị tài liệu lâu dài, được xã hội công nhận và sử dụng. Phần khác, không chỉ được người xem mà cả giới chuyên môn ngưỡng mộ bởi sự lao động cật lực, tận tụy bất chấp hiểm nguy của tác giả những tấm ảnh ấy. Trong hoàn cảnh chụp khó khăn, người chụp phải tận dụng những khoảnh khắc, các thiết bị có sẵn để thể hiện, chứng minh việc chụp ảnh là việc của người làm chứng, người biết vĩnh cửu các khoảnh khắc xảy ra trên trái đất, gây được lòng tin cho người xem ảnh. Lý do để nhiều nhà nghiên cứu về nhiếp ảnh và các lĩnh vực nghệ thuật hiện đại sưu tầm, tìm hiểu kỹ về tiểu sử, điều kiện sống và làm việc của các nhà nhiếp ảnh tác giả các tác phẩm ảnh là nhằm để trả lời câu hỏi: Họ đã tạo ra những hình ảnh có giá trị lớn ấy như thế nào?
Điều ấy cũng có nghĩa là nếu nhà nhiếp ảnh không có mặt tại nơi xảy ra sự kiện, nếu nhân vật có trên ảnh chỉ là những người đóng thế, nếu cảnh và vật, màu sắc có trên ảnh được tạo ra từ một phương pháp nào đó, nếu câu chuyện được nhắc đến trên ảnh là do tác giả bịa đặt ra… thì những ảnh như vậy phải bị coi là hàng giả, người tạo ra ảnh là người làm hàng giả. Tạo ra hàng giả bằng mọi thủ thuật liệu có là vi phạm đạo đức của văn nghệ sĩ, người sản xuất các sản phẩm văn hóa tinh thần?
“Hàng giả” hay là câu chuyện đạo đức trong nghề ảnh
Cũng như mọi thứ hàng giả khác, hàng giả nhiếp ảnh nhìn bề ngoài trông cũng rất… thực, bắt mắt. Vì vậy mới khó phát hiện, mới dễ đoạt giải. Người biết có sự làm giả và cách làm giả không ai khác là người sản xuất (tức người chụp) và người thẩm định, biết là hàng giả nhưng đồng lõa với người làm hàng giả.
Hàng giả nhiếp ảnh càng trở nên khó bị phát hiện, lật tẩy và bị phê phán là vì thế.
Vi phạm các bản quyền nhiếp ảnh cũng liên quan đến đạo đức của văn nghệ sĩ (trong lĩnh vực nhiếp ảnh thì đó là người chụp ảnh).
Sự phát triển nhanh của kỹ thuật in, số lượng báo, tạp chí và nhu cầu thông tin đa dạng bằng ảnh ở các thành phố, khu vực đã thúc đẩy nhanh việc chụp và phổ biến ảnh. Khi chưa có hệ thống tư liệu, lưu giữ và bảo quản đầy đủ, việc chụp và sử dụng ảnh còn rất tùy tiện thì sự nhầm lẫn vô tình hay cố ý về bản quyền tác giả ảnh luôn xảy ra, gây phiền phức và mất lòng nhau, dẫn đến khiếu kiện liên miên. Việc sử dụng ảnh rất tùy tiện bao gồm:
1. Dùng ảnh của người này nhưng đề tên người khác, dùng ảnh của người khác (đã mất) rồi đề tên mình.
2. Dùng ảnh trùng tên nhưng không ghi chú tác giả ở địa phương nào? Cơ quan nào?
3. Dùng ảnh của người khác nhưng ghi chú dưới ảnh là ST (sưu tầm) hay tư liệu (TL) để lĩnh nhuận ảnh.
4. Lấy ảnh của người khác để làm nền, làm phông cho ảnh của mình mà không ghi xuất xứ tác giả.
5. Sử dụng lại ảnh đã từng có trên các ấn phẩm khác mà không ghi xuất xứ.
6. Cắt, cúp để tạo ra bức ảnh khác mà không ghi xuất xứ ảnh gốc.
7. Biên tập lại ảnh của người khác mà không ghi rõ nguồn ảnh từ đâu, chỉ ghi chung chung “có sử dụng tài liệu của đồng nghiệp”.
8. Dùng phần mềm ghép ảnh của nhiều người để tạo ra một ảnh mới ghi tên mình.
Đấy là chưa nói đến các cuộc tranh cãi bất thành giữa những người chụp. Ảnh chụp về Chủ tịch Hồ Chí Minh nằm trong dạng này. Khi dưới ảnh nào ghi tư liệu (TL) thì giải thích chính mình là tác giả. Lại có trường hợp do được quản lý tư liệu của nhiều người, lúc xuất bản sách, người chủ biên đã “quên” tên người chụp. Với các tác giả “khuyết danh” thì lại càng khó tránh sự “nhầm lẫn”. Tấm ảnh Anh chiến sĩ ôm bom ba càng khi bảo vệ Hà Nội năm 1946 (ảnh trong bài) được sử dụng ở nhiều nơi, vốn là ảnh khuyết danh nhưng lại có vài người nhận là của mình. Khi hỏi, truy tìm phim gốc thì được giải thích là “thất lạc”.
Gần đây có chuyện cười ra nước mắt. Người có máy ảnh cho bạn mượn, bạn đi dã ngoại thấy cảnh đẹp nhưng không chụp mà bảo anh bạn ngồi gần chụp. Ảnh chụp chơi, không ai tính đến. Tình cờ dự thi lại đoạt giải cao kèm phần thưởng lớn, thế là gây tranh cãi ai là tác giả. Người nói “máy ảnh là của tôi”, người nói “tôi mới là người bấm máy”, người khác nói “chụp là do tôi bảo”.
Có nên đặt vấn đề “đạo đức hay không đạo đức” trong những cuộc tranh giành danh và lợi như thế?
Ai là người chống “hàng giả”? Chống như thế nào?
Không phủ nhận nỗ lực của các cấp quản lý nhiếp ảnh các Hội Văn học nghệ thuật từ Trung ương đến địa phương trong việc tạo ra một phong trào chụp ảnh rộng khắp, đưa ra quần chúng hàng ngàn ảnh có nội dung lành mạnh, tác động đến thị hiếu quần chúng, góp cho bộ mặt đất nước sáng đẹp hơn. Số hàng thật, chụp thật vẫn nhiều hơn. Nhưng sự có mặt của hàng giả, hàng nhái tại các cuộc trưng bày những năm gần đây có xu hướng tăng. Có những hàng giả đoạt giải cao vô tình như khuyến khích lối chụp ảnh không tôn trọng cái thực. Dù hàng giả có tạo ra những tấm ảnh đẹp lộng lẫy thì lối tô hồng hình ảnh và con người cũng rất xa với bản chất của nhiếp ảnh.
Ai là người chống lại sản phẩm nghệ thuật giả, làm méo mó đời sống? Phải là các cơ quan quản lý nhiếp ảnh, không trao giải cho các hàng giả, thậm chí không nên trưng bày. Lý luận phê bình phải mạnh mẽ phê phán xu hướng săn giải thưởng bằng mọi cách. Đồng thời khuyến khích lối chụp thực, tôn trọng cuộc sống, khiến các nhà nhiếp ảnh lăn lộn, nắm bắt thời cơ, vận dụng tinh thông nghề nghiệp với mục đích tạo ra những tấm ảnh thực. Các nhà quản lý kiên quyết với mọi cách đánh cắp bản quyền nhiếp ảnh, phản đối thái độ không trung thực trong hành nghề và gian dối trong việc phổ biến sản phẩm của một số người chụp.
Kinh tế thị trường, tự do sáng tác, chấp nhận đa phong cách, sự cạnh tranh và quyền được đánh giá tài năng sáng tạo không hề mâu thuẫn với yêu cầu một người làm văn nghệ sống và làm việc với lương tâm và trách nhiệm, có lòng tự trọng và biết tôn trọng các sản phẩm lao động của người khác, không ngộ nhận với các tước hiệu, danh hiệu mà mình đã được trao tặng.
Vũ Huyến/KD&PL
(Nhà Nghiên cứu Lý luận phê bình Nhiếp ảnh)